Bạn đang xem: Tìm Hiểu Về Phật Thích Ca tại aulacschool.vn
Là Phật tử lúc thực hành quy y Phật, bạn cần hiểu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Thầy gốc của chúng ta. Ngài là bậc tỉnh ngộ thấu rõ chân lý của vạn pháp, thị hiện trong hình tướng của nhân loại, đi vào cõi Sa bà đề khai sáng Ánh đạo vàng cho nhân gian.
Là Phật tử lúc thực hành quy y Phật, bạn cần hiểu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Thầy gốc của chúng ta. Ngài là bậc tỉnh ngộ thấu rõ chân lý của vạn pháp, thị hiện trong hình tướng của nhân loại, đi vào cõi Sa bà đề khai sáng Ánh đạo vàng cho nhân gian.
Lúc bạn niệm câu: “Nam mô bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, chữ “bản” tức là “gốc”, “sư” là “thầy”, “Bản sư” chính là “Bậc Thầy gốc”. Đức Phật Thích Ca là bậc Thầy gốc của tất cả chúng sinh ở cõi Sa bà. Chữ “Thích Ca Mâu Ni” là tiếng Ấn Độ, lúc dịch nghĩa sang tiếng Trung Quốc, tên Ngài có hai tức là Năng nhân và Tịch mặc.
1. Phật Thích Ca là người nào – giấc mơ báo trước về sự ra đời của Ngài.
Tại Vương Quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavattsu), ngày nay thuộc nước Nepal, vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, một hôm, hoàng hậu Ma Da (là vợ đức vua Tịnh Phạn – Suddodana) lúc đấy sắp sinh đứa con đầu lòng đã nằm mơ thấy một luồng ánh sáng trắng mỹ diệu chiếu rọi vào bà, từ đấy một con voi trắng rất lớn, tới từ ngọn núi vàng dâng lên cho bà một bông sen trắng.
Lúc tỉnh giấc hoàng hậu Ma Da đã kể với Đức Vua và Ông đã triệu tập các nhà hiền triết, họ cho rằng, đây là một điềm lành báo hiệu rằng đứa nhỏ sắp sinh sẽ là một vĩ nhân.
– Ngày mùng 8 tháng 4 năm 624 TCN Đức Phật ra đời:
Vào ngày mùng 8 tháng 4 năm 624 TCN, hoàng hậu Ma Da hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa tại vườn Lâm Tỳ Ni.
Vua cha Tịnh Phạn vui tươi bèn triệu tập các vị thánh giả, đạo sư để xem tướng và cầu phúc cho đàn ông của mình.
Một hôm có vị đạo sư tên là A Tư Đà tới từ Hy Mã Lạp Sơn xin yết kiến vua để chúc mừng và xem mặt thái tử. Ngài A Tư Đà xem xong bật khóc. Vua Tịnh Phạn hỏi nguyên nhân. A Tư Đà thưa rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất mực sẽ trở thành bậc chánh đẳng, chánh giác. Tôi khóc là vì tới lúc đó thì tôi đã chết rồi nên ko có dịp nghe pháp của Ngài”.
Lớn lên với sự thông minh và sức mạnh phi thường của mình, tới năm 12 tuổi ngài đã tinh thông tất cả các học vấn. Từ năm 13 tuổi ngày được truyền thụ võ nghệ. Ngài có sở trường bắn cung rất thiện xạ. Trong một lần trong một cuộc thi bắn cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng nhưng từ trước tới giờ chưa người nào nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong lúc người giỏi nhất cũng chỉ bắn xuyên được 3 lớp
Sau lúc giành thắng lợi trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã thành hôn với công chúa Da Du Đà La lúc ngài được 16 tuổi.
2. Bước ngoặc thay đổi cuộc đời của thái tử Tất Đạt Đa
Con người gắng sắp xếp mọi điều, nhưng ý trời cuối cùng rồi vẫn sẽ quyết định tất cả. Đó là điều chúng ta thấy được thông qua câu chuyện cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù bị cách ly ngặt nghèo khỏi mọi điều có thể truyền cảm hứng tu hành, cuối cùng những gì vốn được sắp xếp cho tương lai của vị hoàng tử trẻ tuổi vẫn theo trình tự tới ngày hiển lộ…
Trong cuộc sống hoàng cung nhung lụa, Tất Đạt Đa mở màn xuất hiện ước mong khám phá toàn cầu trần tục bên ngoài cung cấm. Người đã quyết định thực hiện một chuyến đi thăm thú vương quốc và thần dân của mình.
Ko có lý do chính đáng nào để ngăn cản ước vọng này, nhà vua đành chấp thuận và gắng bày xếp và sẵn sàng trước xuất sắc nhất. Ông cẩn thận lên kế hoạch chuyến đi và trang trí mọi thứ trên lộ trình nhưng hoàng tử sẽ đi qua, biến tất cả thành hạnh phúc, giàu có và xinh xắn.
Những cảnh tượng xấu hoặc buồn khổ sẽ được loại trừ để ngăn ko cho hoàng tử nhìn thấy bốn tín hiệu đã được chỉ ra bởi những nhà uyên bác là các tín hiệu Lão – Bệnh – Tử, hay gặp 1 nhà tu hành khổ hạnh. Nhưng tất cả sự dự phòng của nhà vua đã trở thành vô ích lúc hoàng tử đi du ngoạn với người đánh xe ngựa Sa Nặc, người đã được sắp xếp sinh cùng ngày với Tất Đạt Đa.
Lúc đang ngao du trong một thị trấn nhỏ, hoàng tử Tất Đạt Đa vô tình nhìn thấy khuôn mặt hằn sâu những nếp nhăn của một ông lão. Đó chính là tín hiệu trước hết trong dự đoán của các nhà tiên tri: tín hiệu của Lão. Tất Đạt Đa ngạc nhiên và hỏi Sa Nặc về người đàn ông đó.
Rồi cậu lại nhìn thấy một người đàn ông bị bệnh và đang ho, nó khiến người cảm thấy khó lý giải. Đó là tín hiệu thứ 2 nhưng các nhà tiên tri đã nói: Bệnh. Cuối cùng, hoàng tử bắt gặp một đám tang ở bờ sông và một nhà tu hành khổ hạnh—người đã từ bỏ tất cả các thú vui thế tục để đạt được sự an lạc trong nội tâm và hạnh phúc vĩnh hằng.
Vậy là 2 tín hiệu cuối cùng là Tử và sự hiện diện của một người tu hành khổ hạnh đã xuất hiện trước mắt Tất Đạt Đa. Sự an lạc từ bi trên gương mặt của nhà sư đã gây ấn tượng mạnh cho Tất Đạt Đa. Người hỏi Sa Nặc ý nghĩa của tất cả những thứ này. Người đánh xe ngựa kể cho hoàng tử nghe về hiện thực của cuộc sống nhưng lẽ ra nên được biết từ lâu.
Trở lại cung điện, Tất Đạt Đa đã xin phép vua cha cho rời cung điện và trở thành một nhà sư khất thực để tìm kiếm chân lý cuộc đời.
Với những hạt giống tiềm tàng được gieo sẵn trong tâm hoàng tử, lúc gặp hiện thực xã hội, người đã ngay tức tốc hiểu được rằng hết thảy mọi thứ trên đời là phù du và mê hoặc và thoảng qua, sự vĩnh hằng của sinh mệnh mới là điều chân chính cần phải tìm kiếm.
Nhà vua Tịnh Phạn cảm thấy rất cực khổ và thất vọng, những gì ông trù tính rốt cuộc cũng ko thành công. Nhà vua bèn sai quân lính tăng cường phòng vệ ngặt nghèo xung quanh cung điện, đồng thời tổ chức thêm nhiều thú vui tiêu khiển để níu chân hoàng tử, kỳ vọng làm con mình quên đi những gì đã gặp ngoài xã hội. Đúng lúc này, phu nhân hoàng tử, công chúa Da Du Đà La đã sinh hạ người con trước hết nhưng cậu đặt tên là La Hầu La (Rahula), tức là “sự ràng buộc.”
Tất Đạt Đa thấy cuộc sống nhung lụa vô nghĩa và cuối cùng đã quyết định bỏ trốn trên con ngựa Kiền Trắc với sự giúp sức của người thầy thân tín, Sắc Na. Hoàng tử đã thức dậy trong đêm, nhìn vợ con lần cuối, rồi lên ngựa, và phóng đi. Trước cổng thành, hoàng tử cắt đi mái tóc dày và giao lại chiếc áo choàng hoàng tử cho Sắc Na.
3. Hành trình đầy gian nan tìm kiếm chân lý cuộc đời của Tất Đạt Đa
Sau lúc rời khỏi cung điện, Tất Đạt Đa đi tới Vương Xá Thành, kinh đô của nước Ma Kiệt Đà thời Ấn Độ cổ, nơi người gặp một số vị sư đang thiền định trong các hang động trên núi. Hoàng tử trở thành đồ đệ của nhà tu hành A La La Ca Lam (Alara Klama), và được dạy cho cách tu luyện. Sau một thời kì tu luyện, hoàng tử ko thấy tiến bộ hơn nữa nên theo học một nhà tu ẩn dật tên là Ưu Đà La La Ma Tử (Uddaka Ramaputta).
Tuy nhiên, sau một thời kì, người lại trông thấy rằng ko thể tiến bộ thêm nữa. Do đó, Tất Đạt Đa tham gia cùng với năm nhà tu hành ở trong rừng Benares để tu luyện bằng cách hành xác, ăn cực ít và trải nghiệm sự khắc khổ. Từ đó trở đi, người ta mở màn gọi hoàng tử Tất Đạt Đa dưới cái tên Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là “nhà hiền triết của dòng tộc Thích Ca”. Sau lúc tu luyện tương tự được sáu năm, Thích Ca Mâu Ni phát xuất hiện rằng ông chưa đạt được sự tỉnh ngộ nhưng thân thể thường nhân của ông đã trở thành vô cùng suy kiệt.
Vào một ngày lúc ông đang thiền định, ông đột nhiên nghe thấy cuộc trò chuyện giữa hai nhạc công trên một con thuyền. Người nhạc công dày dạn kinh nghiệm nói với người tập việc rằng các sợi dây của đàn nguyệt ko nên quá căng hoặc quá chùng. Nếu dây được kéo quá căng, chúng sẽ đứt; và nếu được kéo quá trùng, âm thanh phát ra sẽ ko đúng nữa.
Ngay lúc nghe được điều này, Thích Ca Mâu Ni chợt tỉnh ngộ ra được đạo lý trung dung (đi đường giữa) và ko đi sang phía cực đoan; sau đó ông rời đi để tản bộ. Trên đường đi, ông gặp một cô thôn nữ tên là Sujata, và cô tỏ ý muốn bố thí bánh gạo cho Thích Ca Mâu Ni; vốn giờ đã quá suy kiệt. Truyền thuyết kể lại rằng thân thể của Thích Ca Mâu Ni đã trở về tầm thường ngay sau lúc ăn nó.
4. Vị Phật trước hết là người nào?
Vị Phật trước hết chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài là vị Phật có thật trong lịch sử. Ngài chính là hoàng tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm của vương quốc Thích Ca, thuộc Ấn Độ ngày nay. Hoàng tử ra đời vào năm 624 TCN. Sau lúc thấu rõ những cảnh đời “sinh lão bệnh tử” cũng như sự thanh thản của các vị tu sĩ, ngài đã quyết tâm bước vào trục đường tu hành, trải qua muôn sự khó khăn, thử thách và đạt thành chính đạo, trở thành vị Phật trước hết đặt mầm móng cho Phật Giáo trở về sau.
5. Thành đạo
Năm người bạn đồng tu đã rời bỏ Ngài ra đi. Còn lại một mình, một cảnh cô độc, Ngài đi dọc theo bờ sông Ni-Liên-Thiền hướng về khu rừng cây um tùm khác cách xa làng mạc, ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng. Tại nơi đây vắng vẻ, ko bóng người qua lại, Ngài chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau này người ta gọi cây đó là cây Bồ Đề. Ngài trải cỏ Kusha làm toạ cụ, quyết chí tham thiền và thề nếu ko chứng đạo dù thịt nát xương tan Ngài cũng sẽ ko rời khỏi cội cây này. Nhớ lại pháp thở lúc còn nhỏ, hiện giờ thử lại Ngài đạt được kinh nghiệm lúc xưa, nếu ko nói tâm mỗi lúc mỗi yên lặng hơn nhiều, vì thế Ngài nhất quyết chọn pháp này để tu cho tới lúc giải thoát. Ngài mở màn để mắt tới vào hơi thở, rồi buông thả hơi thở, quay vào trong tâm, lặng lẽ thiền định để tìm ra những chân lý cao sâu thâm diệu hầu khắc phục bài toán phức tạp sinh già bệnh chết.
Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đã tuần tự nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Lúc tâm Ngài hoàn toàn định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, ko cấu nhiễm, ko phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, tĩnh tâm… hướng về tuệ giác liên quan tới sự nhớ lại những kiếp quá khứ của chính mình. Tất cả những gì xảy ra từ nhiều kiếp quá khứ xuất hiện trong nhận thức của ngài như một cuốn phim trước mặt. Sanh ra, chết đi, tái sanh…. Hết đời này tạ thế khác…Làm con người này, làm con người kia… như thế nào Ngài đều rõ biết. Đây là tuệ giác trước hết ngài chứng ngộ vào lúc canh Một của đêm thành đạo, gọi là Túc Mạng Minh.
Phá tan được lớp vô minh, tự mình nhìn ra được vô số kiếp của mình. Hiện thời ngài mới hướng tâm về tri giác (hiểu biết) hiện tượng Sanh, Diệt của chúng sanh. Với huệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Ngài thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ngài biết người hạ liệt, kẻ quyền quý, người xinh xắn, kẻ thô xấu, người may mắn kẻ xấu số…v.v… Tất cả đều trải qua diệt và sanh, sanh và diệt, tuỳ hành vi tạo tác hạnh nghiệp tốt xấu thiện ác của mỗi người nhưng thọ sanh luân hồi trong 6 cõi: trời, người, Atula, súc sanh, ngạ quỹ hay địa ngục… Tương tự với Thiên Nhãn Minh, ngài mục kích sự phân tán và sự cấu hợp trở lại của chúng sanh. Ngài chứng ngộ Thiên Nhãn Minh trong canh giữa của đêm thành đạo.
Tiếp theo, ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ tri hiểu biết sự hoàn thành các pháp trầm luân. Ngài biết như thật “đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa tới diệt khổ”. Ngài biết như thật “đây là những ô nhiễm (lậu hoặc), đây là nguyên nhân của các lậu hoặc, đây là sự diệt trừ những lậu hoặc, đây là con đường diệt trừ các lậu hoặc”. Tuần tự ngài nhận thức tiếp : “Đây là phiền não, đây là nguyên nhân của phiền nào, đây là sự hoàn thành phiền não, đây là con đường đưa tới hoàn thành phiền não”.. v.v… và. v.v… Nhận thức như thế, tâm Ngài thoát khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), thoát khỏi hữu lậu (ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và thoát khỏi vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh). Ngài chứng Lậu Tận Minh lúc trời hừng sáng. Bấy giờ Ngài biết mình đã được giải thoát, Ngài nhận thức rằng: “Tái sanh đã hoàn thành, đời sống Phạm Hạnh đã viên mãn, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện nay ko có đời sống nào khác nữa” (Kinh Trung Bộ 1, Đại Kinh Saccaka, số 37, trg 541-543)
Màn vô minh đã hoàn toàn giải toả và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng tràn trề tới. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc đó 35 tuổi. Suốt 6 năm dài đăng đẳng, ko có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cũng ko được sự hướng dẫn từ một năng lực siêu phàm nào, cô độc một mình, tự nỗ lực tranh đấu chính mình và tự mình thắp đuốc mò mẫm đi trong đêm tối. Kết quả đã tận diệt mọi ô nhiễm (lậu hoặc) hoàn thành mọi tiến trình tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật lịch sử.
Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật lịch sử. Vì sau mấy nghìn năm, tư liệu sử sách vẫn còn để lại:
Cha: Đức Vua Tịnh Phạn nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ)
Mẹ: Hoàng hậu Mahãmaya (thăng hà sau lúc sanh Thái tử 7 ngày)
Mẹ kế: Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (là dì ruột nuôi Thái tử cho tới lúc lớn khôn)
Ngày sanh: Rằm tháng 4 Âm lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Nepal Thành hôn với công chúa Da-Du-Đa-La: Năm 16 tuổi
Tới 29 tuổi có con đầu lòng là: La-Hầu-La
Bỏ hoàng cung xuống tóc: Ngày 8 tháng 2, vào năm 29 tuổi
Thành đạo: Ngày 8 tháng 12. Năm 35 tuổi tại Buddha Gaya, Ấn Độ
Hoằng pháp: 45 năm
Nhập Niết Bàn: Rằm tháng 2, thọ 80 tuổi tại Kusinãrã, Ấn Độ.
Hiện nay, vẫn còn các thánh tích (Tứ Động Tâm) ghi lại những nơi Đức Phật đã đi qua do các nhà khảo học người Anh tìm thấy. Như Lâm Tỳ Ni là nơi Đức Phật đản sanh. Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha Gaya khoảng 10 cây số cách nhà ga xe lửa Gaya) là nơi Đức Phật thành đạo. Vườn Lộc Giả, hiện giờ là Sarnath, Ấn Độ, là nơi Đức Phật chuyển pháp luân trước hết, giảng bài kinh Tứ Diệu Đế và Vô Ngã Tướng độ cho 5 anh em Kiều Trần Như đắc quả A-La-Hán. Nơi Đức Phật diệt độ là Kusinãrã (hiện giờ gọi là Kasi, khoảng 40 cây số cách nhà ga Gorakhpur, Ấn Độ).
6. Truyền rộng Phật Pháp, từ bi cứu độ chúng sinh
Đức Phật Thích Ca được tôn vinh là Giáo chủ của tín đồ Phật giáo ở cõi Ta Bà này. Cuộc đời của Ngài cũng có một huyền thoại rất hy hữu. Ngài đã để lại một kho tàng giáo lý trị giá. Đạo Phật có khoảng trên 800 triệu tín đồ trên toàn cầu (hơn 7 tỷ người) và đạo Phật cũng có hệ thống nghi lễ hẵn hoi.
Tương tự, một mặt đạo Phật cũng có thể được xem như là một tôn giáo, nhưng hễ tôn giáo thì người Giáo chủ đấy có nhiều huyền thoại về cuộc đời cho nên chúng ta mới có Đức Phật Huyền Thoại. Nhưng trái lại trong kinh điển Phật giáo để lại sức ta thấy rằng Ngài ko hề nhận mình là Giáo Chủ nhưng chỉ là người Thầy trao truyền những phương pháp tu tập, những kinh nghiệm nhưng Ngài đã trải qua cho những người muốn tu tập để thoát khổ giải thoát, cho nên người ta tôn xưng Ngài là vị Phật lịch sử duy nhất trên cõi đời này. Những danh hiệu cao quý khác do tín đồ của Ngài kính cẩn tôn xưng nhưng thôi.
Nhân ngày lễ Phật Đản chúng ta nghĩ tưởng về người khai sáng ra đạo Phật qua 2 hình ảnh theo 2 truyền thống: Lịch Sử và Huyền Thoại. Truyền thống nào cũng mang lợi lạc cho chúng sanh.
Chúng ta biết rằng Đức Phật lúc còn tại thế đã ko nhận mình là thần linh, là thượng đế, nên Ngài ko ban phát phép lành hay cứu rổi cho bất kỳ người nào. Ngài chỉ để lại một thuyết giáo nhưng qua sự tự tu, tự chứng của Ngài, cho những người nào tin và theo học. Thuyết lí đó trị giá chủ yếu ở các khái niệm thiện tâm, nhân ái và đồng đẳng. Đó là về mặt số đông, xã hội. Về mặt tâm lý Ngài để lại một kinh nghiệm tu tập để con người thoát khỏi sự kiềm toả của sự cực khổ để được sống trong trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Niết Bàn.
Lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban trải khắp cứu độ muôn loài, trí tuệ của Ngài rực sáng để bình lặng trước cuộc đời. Tương tự danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gồm cả hai khía cạnh Từ bi và Trí tuệ. Đức Phật nào cũng sẽ có đủ hai phần tương tự. Cả cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng về Từ bi và Trí tuệ. Là môn đồ của Phật, chúng ta phải thừa hưởng được gia tài Ngài để lại cho chúng sinh, đó ko phải là kho báu thế gian thông thường nhưng chính là Từ bi và Trí tuệ. Gia tài đấy mỗi chúng ta đều có nhưng vì chúng ta quên mất ko biết sử dụng nên chúng ta vẫn mãi quanh quẩn trong vòng khổ luân hồi nhưng thôi!
Bạn thấy bài viết Tìm Hiểu Về Phật Thích Ca có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Tìm Hiểu Về Phật Thích Ca bên dưới để aulacschool.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THCS – THPT Âu Lạc
Phân mục: Kiến thức chung#Tìm #Hiểu #Về #Phật #Thích
Bạn thấy bài viết Tìm Hiểu Về Phật Thích Ca có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Tìm Hiểu Về Phật Thích Ca bên dưới để Trường THCS – THPT Âu Lạc có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: aulacschool.vn của Trường THCS – THPT Âu Lạc
Nhớ để nguồn: Tìm Hiểu Về Phật Thích Ca