Làm văn: Khái quát văn học Việt Nam từ đầu tháng 8 năm 1945 đến thế kỉ XX (chi tiết)
Hướng dẫn học tập
Câu 1 (trang 18 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
– Hoàn cảnh lịch sử – xã hội 1945-1975: diễn ra nhiều sự kiện trọng đại:
+ Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc diễn ra vô cùng ác liệt, kéo dài suốt 30 năm.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
=> Những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật.
– Tình hình văn hóa – xã hội
Nền kinh tế nghèo nàn, kém phát triển.
+ Giao lưu văn hóa với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn ở một số nước, chủ yếu tiếp xúc với Trung Quốc và Liên Xô.
Câu 2 (trang 18 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
– Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 phát triển qua 3 giai đoạn:
+ Từ 1945 – 1954
+ Từ 1955 – 1964
+ Từ 1965 – 1975
– Những thành quả chính:
+ Giai đoạn 1: 1945 – 1954
Văn học chủ yếu ca ngợi tổ quốc và quần chúng cách mạng, kêu gọi toàn dân đoàn kết, cổ vũ phong trào Nam tiến, ca ngợi những tấm gương mẫu mực vì nước xả thân. Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Truyện ngắn và ký: có các tác phẩm tiêu biểu: hồi ký Một lần tới Thủ đô, Lên đường chiến đấu của Trần Đăng; truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, Làng của Kim Lân, Lá thư nhà của Hồ Phương.
+ Thơ: Các tác phẩm thơ kháng chiến tiêu biểu là Cảnh khuya, Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh, Đèo Dài của Hữu Loan, Qua sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng, Tôi của Hồng Nguyên, Đất nước. của Nguyễn Đình Thi, Đồng chí của Chính Hữu, Bao giờ em về của Hoàng Trung Thông và đặc biệt là tập Việt Bắc của Tố Hữu.
+ Kịch: Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hoa của Học Phi.
+ Công tác lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học: từ 1945 đến 1954 không phát triển nhưng đã có một số công trình quan trọng: Chủ nghĩa Mác và những vấn đề văn hóa Việt Nam của Trường Chinh, tiểu luận Bàn về văn thơ kháng chiến và quyền sống của nhân dân trong “Văn Truyện Kiều” của Hoài Thanh,…
+ Giai đoạn 2: 1955 – 1964
Văn học thể hiện hình ảnh người lao động, ca ngợi những đổi thay của đất nước và con người trong những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, văn học còn thể hiện tình cảm ruột thịt sâu nặng với người Nam ruột thịt, thể hiện nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước.
+ Văn xuôi: mở rộng đề tài, bao quát nhiều vấn đề của hiện thực đời sống: Mùa lạc của Nguyễn Khải, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Trên đỉnh núi cuối cùng của Hữu Mại,… Một số truyện ngắn như Vợ Nhặt của Kim Lân, Hoàng hôn của Nguyễn Công Hoan hay tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng cũng phản ánh hiện thực cuộc sống trước Cách mạng với một cách nhìn mới và sức mạnh tổng hợp. Mới.
+ Thơ ca: phát triển mạnh với các tác phẩm Gió của Tố Hữu, Ánh sáng phù sa của Chế Lan Viên, Nỗi riêng của Xuân Diệu, Cánh buồm của Hoàng Trung Thông.
+ Kịch: Ngoài ra còn có một số tác phẩm gây được sự chú ý của dư luận như Đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyên Vũ, Chị Nhàn, Ngọn gió của Đào Hồng Cẩm.
+ Giai đoạn 3: 1965 – 1975
Văn học chủ yếu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ, ca ngợi chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
+ Văn xuôi: phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động với các tác phẩm như Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, v.v.
+ Thơ ca: đạt nhiều thành tựu nổi bật: tập thơ Máu và hoa, Ra trận của Tố Hữu, và một thế hệ nhà thơ trẻ như: Nguyễn Khoa Điềm với Đất nước, Xuân Quỳnh với Gió cát trắng…
+ Phim truyền hình: cũng có những thành tựu đáng chú ý như Việt Nam Quê hương, Tiết trời ngày mai của Xuân Trình, Đại úy của tôi của Đào Hồng Cẩm, v.v.
+ Nghiên cứu, phê bình văn học: có các tác giả nổi tiếng như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ.
Câu 3 (trang 18 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
Những nét cơ bản của văn học 1945-1975 là:
– Văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước
+ Nền văn học được xây dựng theo mô hình: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận” (Hồ Chí Minh), nhà văn là chiến sĩ.
+ Chủ đề phản ánh: chủ đề Tổ quốc, chủ đề CNXH.
+ Nhân vật trung tâm: bộ đội mặt trận vũ trang, dân quân du kích, thanh niên xung phong.
+ Tác phẩm tiêu biểu: tác phẩm của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, Thần Hải, Thu Bồn, v.v.
– Văn học hướng tới đại chúng
+ Thể hiện quan điểm mới của tác giả về nhân dân: lấy nhân dân là đối tượng tối thượng hướng tới, đồng thời là nguồn lực bổ sung cho văn học.
+ Nội dung: quan tâm đến đời sống nhân dân lao động, phản ánh những số phận bất hạnh trong xã hội cũ, niềm vui, tự hào về cuộc sống mới.
– Văn học chủ yếu là sử thi và lãng mạn
* Xu hướng sử thi
+ Chủ đề: đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử gắn với vận mệnh chung của dân tộc.
+ Nhân vật trung tâm tiêu biểu cho lý tưởng chung của dân tộc và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.
+ Giọng điệu ngợi ca, trang trọng, hào hùng, hào hùng.
+ Không gian, thời gian trong sử thi rộng lớn.
* Cảm hứng lãng mạn
+ Khẳng định lí tưởng sống mới, vẻ đẹp con người mới.
+ Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Câu 4 (trang 18 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975 phải đổi mới vì căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hoá:
– Đất nước hòa bình, bước sang thời kỳ mới – thời kỳ độc lập, tự do. Yêu cầu văn học phải thay đổi để phản ánh cuộc sống mới.
– Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp xúc với các nền văn hóa đa dạng trên thế giới.
– Dịch thuật văn học, báo chí và các phương tiện truyền thông khác đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học.
– Đất nước phát triển thúc đẩy văn học phát triển cho phù hợp với nhiệm vụ đổi mới và hoàn cảnh khách quan.
Câu 5 (trang 18 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
Thành tựu của văn học từ 1975 đến cuối thế kỉ XX:
– Bài thơ:
+ Không tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn như giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn có những tác phẩm gây được sự chú ý của độc giả của các tác giả Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, v.v.
+ Hiện tượng nở rộ các ca khúc dài ngân vang trên piano: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường vào thành phố của Hữu Thỉnh, Trường ca của Nguyễn Đức Mậu,…
– Văn xuôi:
+ Có nhiều khởi sắc hơn thơ với các tác giả như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu… với những tác phẩm được xem như một hành trình nhận thức lại văn học.
+ Từ sau 1986, văn học bước vào giai đoạn gắn bó mật thiết hơn với đời sống hàng ngày.
– Kịch: phát triển mạnh như các tác phẩm Hồn Trương Ba, Da hàng thịt, Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ, v.v.
– Lý luận, phê bình văn học cũng có sự đổi mới về hệ thống quan niệm, cách tiếp cận đối tượng.
Luyện tập
Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã cho ta thấy mối quan hệ hai chiều giữa văn nghệ và kháng chiến:
– Kháng chiến là đối tượng, là chất liệu để nghệ thuật phản ánh
– Nhưng chính văn nghệ cũng đã tiếp thêm động lực cho cuộc sống của người kháng chiến.
1, Mở bài: Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
2, Thân bài:
Nhận xét trên được trích từ bài Nhận đường của Nguyễn Đình Thi, viết năm 1948 – thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp với vô vàn khó khăn, gian khổ. Văn học cũng như các loại hình nghệ thuật khác đang hướng tới sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
a, Nghệ thuật phục vụ kháng chiến:
Văn học được xem như một thứ vũ khí đắc lực phục vụ chiến tranh. Cây bút là vũ khí; Nhà văn là chiến sĩ trên mặt trận nghệ thuật. Nhân vật trung tâm của văn học là người lính trên mặt trận vũ trang và lực lượng trực tiếp phục vụ chiến trường. Tổ quốc trở thành nguồn cảm hứng lớn, trở thành chủ đề xuyên suốt các tác phẩm văn học.
– Chứng minh qua các tác phẩm: Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),…
b, Nhưng chính cuộc kháng chiến đã đem lại cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt và lửa ở phía trước đang đúc nghệ thuật mới của chúng tôi:
– Kháng chiến và hiện thực khốc liệt trên chiến trường là chất liệu cho các tác phẩm của nghệ sĩ.
Nguyễn Đình Chiểu từng viết:
“Bạn chở bao nhiêu tàu?
Bọn này đâm bút gian ác quá”.
Nỗi đau chiến tranh đã hun đúc nên những trang văn, vần thơ đầy chất thép. Cùng với đó, tình cảm cao đẹp, thiêng liêng giữa cán bộ với nhân dân, giữa đồng chí với đồng đội cũng là hiện thực được phản ánh trong văn học. Không chỉ vậy, vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước trong lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là đối tượng khám phá của người nghệ sĩ.
– Chứng minh qua các tác phẩm: Tây Tiến (Quang Dũng), Việt Bắc (Tố Hữu), Người lái đò sông Đà (Trích sông Đà, Nguyễn Tuân),…
=> Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã cho ta thấy mối quan hệ qua lại giữa văn nghệ và kháng chiến: kháng chiến là đối tượng, chất liệu để nghệ thuật phản ánh nhưng chính nghệ thuật cũng cho kháng chiến sức sống. Chiến tranh có thêm động lực.
Nhớ để nguồn bài viết: Soạn bài: Khái quát văn học Việt Nam từ đầu cách tháng Tám 1945 đến thế kỉ XX (chi tiết) của website Trường THCS – THPT Âu Lạc
Chuyên mục: Văn học