Soạn bài: Biểu cảm trong bài văn nghị luận – tiếp theo (chi tiết)
III. Xác định giọng điệu phù hợp trong bài văn
1. Trả lời câu hỏi
a) Đối tượng nghị luận và nội dung cụ thể của hai đoạn trích tuy khác nhau nhưng ta có thể thấy cả hai đoạn trích này đều có giọng điệu giống nhau. Đó là một giọng điệu nghiêm túc, và cực kỳ trang trọng. Ngoài điểm chung này, mỗi bài nổi bật với cảm hứng riêng như sau:
– Đoạn đầu là cảm hứng buộc tội, tố cáo kẻ thù nên tác giả sử dụng giọng văn vô cùng mạnh mẽ, hào hùng.
– Đoạn 2 là tiếng nói tri ân nhà thơ Hàn Mặc Tử nên giọng điệu da diết ở đây là giọng trầm lắng, tha thiết, trìu mến.
b) Cơ sở để tạo nên sự khác biệt như đã nói ở trên xuất phát từ nội dung chính của đoạn trích đó. Tùy theo nội dung lập luận, đối tượng lập luận là gì mà tác giả sử dụng các giọng điệu khác nhau để lập luận của mình thêm thuyết phục.
c) Đoạn đầu dùng nhiều từ ngữ thuộc lớp chính trị xã hội vì nội dung luận điểm cũng nói về chính trị xã hội nên bài viết cần có sức thuyết phục và đi đúng vào chủ đề của tác giả. sản phẩm thì không thể không dùng lớp từ này. Ngoài ra để làm cho văn bản hấp dẫn người đọc, Hồ Chí Minh còn sử dụng kết hợp nhiều câu có cấu trúc song hành, liệt kê, lặp nhiều cú pháp. Điều này làm cho văn bản giống như một loạt các cáo buộc mà kẻ thù sẽ không thể tránh được.
2. Trả lời câu hỏi
một. Giọng điệu của văn nghị luận trong đoạn trích trên:
– Đoạn đầu là lời kêu gọi toàn dân tộc đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc, nên Hồ Chí Minh đã dùng giọng văn tha thiết, hùng hồn đầy uy lực, như thúc giục. Để tạo nên giọng điệu này, tác giả đã chú ý đến từng chi tiết nhỏ như: ngôn ngữ, câu văn, sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
– Giọng điệu của đoạn 2 tha thiết, trầm bổng như những câu văn xuôi. Giọng điệu như những lời giải thích về thơ Xuân Diệu, giải thích nội dung thơ ông, từ đó cắt nghĩa xuất xứ của những nội dung đó.
b) Cơ sở tạo nên sự khác biệt về giọng điệu trong hai đoạn trích trên là:
– Vì là lời kêu gọi toàn quốc đứng lên kháng chiến nên trong đoạn văn ngắn này, Hồ Chí Minh đã dùng nhiều câu mang tính chất kêu gọi, cầu cứu. Ví dụ: “Hỡi đồng bào cả nước”, “Hỡi đồng bào” “chúng ta phải đứng lên” “thà…chứ nhất định không…” Tác giả dùng từ để gọi những tập thể như chúng tôi, đồng bào, vì bài viết này nhằm mục đích tất cả mọi người chứ không phải một vài cá nhân. Hồ Chí Minh còn sử dụng phép lặp cú pháp khiến cho lời kêu gọi được lặp đi lặp lại nhiều lần, khắc sâu tâm trí người đọc.
– Đoạn 2, để diễn tả tình cảm dạt dào, thiết tha, trìu mến, tác giả đã sử dụng các tính từ chỉ trạng thái, mức độ với tần suất dày đặc như: dạt dào, vội vã, háo hức, say sưa. Đắm chìm, lặng lẽ, bi tráng,… Đây đều là những tính từ rất đặc trưng cho phong cách của đối tượng mà bài phân tích hướng đến. Để diễn tả những cảm xúc dâng trào, đoạn trích còn được tạo thành từ những câu văn dài, nhiều bậc, nhiều phép liệt kê, v.v.
3. Những điểm cần lưu ý về giọng điệu trong văn nghị luận;
– Về cơ bản nên là giọng trang trọng, nghiêm túc.
– Tuy nhiên, tùy từng vấn đề mà giọng điệu có sự thay đổi, kết hợp cho phù hợp và đạt hiệu quả lập luận cao nhất.
IV. Luyện tập
Câu 1 (trang 158 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
1. Đây là bài văn nghị luận về một sự kiện lịch sử có thật nên Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều từ ngữ lịch sử – xã hội, những từ ngữ được sử dụng rất chính xác phù hợp với một văn bản. lịch sử vô cùng quan trọng của dân tộc: Đó là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng và oai hùng. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những câu văn với giọng điệu vô cùng mạnh mẽ, dứt khoát, mạnh mẽ để thể hiện rõ quan điểm của mình. Đó cũng là những sự thật không thể chối cãi nên giọng điệu là hoàn toàn phù hợp.
2. Đoạn văn này bàn về một tác giả văn học nên ngoài giọng trang trọng, nghiêm túc thường thấy trong các bài văn tế, nó còn có sự kết hợp với giọng trữ tình vô cùng tha thiết. Tác giả sử dụng nhiều từ tài hoa đúng chất Nguyễn Tuân khiến bài văn có một giọng điệu riêng, không lẫn vào đâu được.
3. Đoạn 3 là nghị luận về hai nhân vật trong tác phẩm văn học, điều này làm cho bài văn rất trữ tình. Ngoài ra, đoạn trích này còn sử dụng bút pháp so sánh để làm rõ hơn các thuộc tính của hai đối tượng được đề cập.
Câu 2 (trang 158 SGK Ngữ Văn 12 Tập 1):
Chọn viết dàn bài cho đề a.
1. Dẫn nhập: dẫn dắt giới thiệu vấn đề.
2. Thân bài:
– Việc chọn nghề của thanh niên hiện nay: Chủ yếu xuất phát từ tác động của các yếu tố khách quan bên ngoài. Ví dụ: nghe lời cha mẹ, thầy cô; chọn nghề hot, kiếm nhiều tiền,…
Ưu điểm của tùy chọn này:
+ Các bạn trẻ sẽ không phải suy nghĩ, nhàn nhã, thư thái (trong thời gian ngắn), không phải đau đầu lựa chọn ngành nghề nào phù hợp với mình nhất.
+ Có những mặt đúng, mặt tích cực đối với những người không có chính kiến riêng, không biết mình yêu cái gì.
– Những mặt tiêu cực của việc chọn nghề trên:
+ Không được làm công việc mình yêu thích. Cuộc sống sẽ tẻ nhạt, nhàm chán, không thể gắn bó lâu dài với công việc.
– Ý kiến cá nhân: đây là cách chọn bị động. Cách đúng đắn nhất vẫn là xuất phát từ sở thích và mong muốn cá nhân. Mình phải xác định mình muốn làm gì, mình có thể làm gì và trong tương lai gần, xã hội sẽ yêu cầu những ngành nghề gì. Cân bằng được những câu hỏi trên, chúng ta sẽ kiếm được một công việc phù hợp và đúng sở trường.
– Dẫn chứng: Việc chọn nghề theo định hướng của cha mẹ có thể phù hợp với những bạn mà cha mẹ có thể sắp xếp công việc cho mình, cộng với yêu cầu bản thân không có chính kiến, sở thích gì. trưởng. Còn số đông, không dám làm theo chính kiến của mình, không dám sống trọn vẹn với ước mơ, hoài bão của mình thì sẽ rất khó thành công. Ngược lại, những người dám biến đam mê thành hiện thực thường sẽ đạt được thành công trong cuộc sống. Ví dụ như Bill Gate bỏ học Harvard, không đi theo định hướng của cha mẹ mà theo đuổi niềm đam mê máy tính và phần mềm, thành công của ông đến nay cũng không nhiều người biết đến.
3. Kết bài: khẳng định lại vấn đề.
Nhớ để nguồn bài viết: Soạn bài: Diễn đạt trong văn nghị luận – tiếp theo (chi tiết) của website Trường THCS – THPT Âu Lạc
Chuyên mục: Văn học